ANT Lawyers

Vietnam Law Firm with English Speaking Lawyers

ANT Lawyers

Vietnam Law Firm with English Speaking Lawyers

ANT Lawyers

Vietnam Law Firm with English Speaking Lawyers

ANT Lawyers

Vietnam Law Firm with English Speaking Lawyers

ANT Lawyers

Vietnam Law Firm with English Speaking Lawyers

Thứ Năm, 29 tháng 9, 2022

Ưu đãi thuế TNDN đối với doanh nghiệp Khoa học công nghệ từ năm 2021

Ngày 01/03/2021, Thông tư số 03/2021/TT-BTC ngày 11/01/2021 hướng dẫn về miễn thuế, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp khoa học và công nghệ đã có hiệu lực, điều này giúp cho doanh nghiệp khoa học công nghệ có được nhiều ưu đãi trong hoạt động kinh doanh của mình.


Đối tượng được hưởng ưu đãi cần đáp ứng các điều kiện về giấy phép doanh nghiệp khoa học và công nghệ, doanh thu các sản phẩm hình thành từ kết quả khoa học và công nghệ đạt tỉ lệ quy định, doanh thu được tạo ra từ dịch vụ có ứng dụng kết quả khoa học và công nghệ trong lĩnh vực công nghệ thông tin là dịch vụ mới thực hiện theo quy định của Bộ Khoa học và Công nghệ, thực hiện hạch toán riêng theo từng hoạt động sản xuất và thực hiện chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật và nộp thuế theo kê khai.

Đối với các doanh nghiệp đáp ứng đủ các điều kiện trên, sẽ được ưu đãi miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định, cụ thể: được miễn thuế 04 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 09 năm tiếp theo. Thời gian miễn thuế, giảm thuế sẽ được tính liên tục kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Trong trường hợp ba năm đầu tiên không có thu nhập chịu thuế, thì thời miễn giảm sẽ được tính từ năm thứ tư.

Tuy nhiên, trong thời gian đang được ưu đãi miễn thuế, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, nếu năm nào doanh nghiệp khoa học và công nghệ không đáp ứng điều kiện về doanh thu của các sản phẩm hình thành từ kết quả khoa học và công nghệ đạt tỷ lệ tối thiểu 30% trên tổng doanh thu năm của doanh nghiệp thì năm đó doanh nghiệp khoa học và công nghệ không được hưởng ưu đãi và được tính trừ vào thời gian được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp của doanh nghiệp khoa học và công nghệ.

Trường hợp doanh nghiệp khoa học và công nghệ đã có thu nhập chịu thuế nhưng thời gian hoạt động sản xuất, kinh doanh được miễn thuế, giảm thuế của năm đầu tiên dưới 12 (mười hai) tháng thì doanh nghiệp khoa học và công nghệ được lựa chọn hưởng miễn thuế, giảm thuế ngay trong năm đầu tiên đó hoặc đăng ký với cơ quan thuế thời gian bắt đầu được miễn thuế, giảm thuế vào năm tiếp theo. Nếu doanh nghiệp đăng ký để miễn thuế, giảm thuế vào năm tiếp theo thì phải xác định số thuế phải nộp của năm đầu tiên đã có thu nhập chịu thuế để nộp vào Ngân sách Nhà nước theo quy định.

Trên đây là quy định về miễn thuế, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp khoa học công nghệ từ đầu năm 2021 theo quy định tại Thông tư số 03/2021/TT-BTC. Các doanh nghiệp khoa học công nghệ cần nắm rõ để áp dụng, nhằm tận dụng tốt nhất chính sách ưu đãi của cơ quan nhà nước, đem đến hiệu quả kinh doanh lâu dài cho doanh nghiệp. 

For clients speaking English, ANT Lawyers is a law firm in Vietnam with English speaking lawyers, located in the business centers of Hanoi, Danang and Ho Chi Minh City to provide convenient access to our clients. Please contact us via email ant@antlawyers.vn or call our office at +84 28 730 86 529 for legal service in Vietnam


Thứ Ba, 27 tháng 9, 2022

Chính sách giảm thuế giá trị gia tăng

Nhằm mục tiêu kích thích tăng trưởng, phục hồi kinh tế sau ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, Chính phủ đã ban hành chính sách giảm thuế giá trị gia tăng. Việc giảm thuế giá trị gia tăng là giải pháp và là công cụ hiệu quả nhằm kích thích tiêu dùng và dự kiến sẽ tạo ra động lực phát triển nhanh chóng giúp các doanh nghiệp khôi phục tình hình kinh doanh, sản xuất.

Chính sách giảm thuế giá trị gia tăng đã được cụ thể hóa bằng Nghị định 15/2022/NĐ-CP quy định chính sách miễn, giảm thuế theo nghị quyết số 43/2022/QH15 của quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội. Theo đó, thuế giá trị gia tăng sẽ giảm từ 10% xuống mức 8%. Mức giảm này sẽ tạo điều kiện cho người tiêu dùng tăng mức chi tiêu, qua đó doanh nghiệp sẽ bán được nhiều sản phẩm hơn.

Việc giảm thuế giá trị gia tăng sẽ được áp dụng đối với các nhóm hàng hóa, dịch vụ đang áp dụng mức thuế suất 10%, trừ nhóm hàng hóa, dịch vụ sau: (i) Viễn thông, hoạt động tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản, kim loại và sản phẩm từ kim loại đúc sẵn, sản phẩm khai khoáng (không kể khai thác than), than cốc, dầu mỏ tinh chế, sản phẩm hóa chất; (ii) Sản phẩm hàng hóa và dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt; (iii) Công nghệ thông tin theo pháp luật về công nghệ thông tin. Tuy nhiên, nếu các hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng hoặc đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng 5% theo quy định của Luật Thuế giá trị gia tăng thì thực hiện theo quy định của Luật Thuế giá trị gia tăng và không được giảm thuế giá trị gia tăng.

Liên quan đến mức giảm thuế giá trị gia tăng, các doanh nghiệp cần lưu ý đến phương pháp tính thuế giá trị gia tăng để áp dụng. Theo đó, nếu doanh nghiệp tính thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ thì được áp dụng mức thuế suất thuế giá trị gia tăng 8% và trường hợp doanh nghiệp tính thuế giá trị gia tăng theo phương pháp tỷ lệ % trên doanh thu thì sẽ được giảm 20% mức tỷ lệ % để tính thuế giá trị gia tăng khi thực hiện xuất hóa đơn đối với hàng hóa, dịch vụ được giảm thuế giá trị gia tăng theo quy định.

Có thể thấy, giảm thuế giá trị gia tăng trong bối cảnh hiện tại là giải pháp phù hợp. Bởi vì việc giảm thuế giá trị gia tăng sẽ được triển khai nhanh chóng và doanh nghiệp, người tiêu dùng sẽ ngay lập tức được hưởng lợi. Việc giảm thuế này được kỳ vọng sẽ giúp giá thành sản phẩm, dịch vụ giảm từ đó kích thích nhu cầu tiêu dùng của người dân. Bên cạnh đó, sẽ giúp tăng sản lượng sản xuất của doanh nghiệp và tạo thêm việc làm cho người lao động. Vì lẽ đó mà việc giảm thuế giá trị gia tăng được xem là cần thiết để thúc đẩy nền kinh tế sớm phục hồi sau thời gian dài bị ảnh hưởng của đại dịch.

Chính sách giảm thuế giá trị gia tăng sẽ có hiệu lực từ ngày 01 tháng 02 năm 2022 đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2022. Đây được đánh giá là khoảng thời gian áp dụng phù hợp đáp ứng đúng mục tiêu hỗ trợ chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội. Ngoài ra, thời hạn này sẽ giảm nguy cơ phát sinh lạm phát.

Trước đây, thuế giá trị gia tăng chỉ được giảm đối với một số sản phẩm đặc thù, tuy nhiên với chính sách này, đối tượng được giảm thuế đã được mở rộng hơn ở hầu hết các lĩnh vực kinh doanh, sản xuất. Do đó, tác động của chính sách này đến nền kinh tế trong tương lai là rất lớn. Tuy nhiên, để việc giảm thuế giá trị gia tăng đến được với người tiêu dùng, cơ quan quản lý thuế cần có sự kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ hơn để đáp ứng mục tiêu đã đề ra. 

For clients speaking English, ANT Lawyers is a law firm in Vietnam with English speaking lawyers, located in the business centers of Hanoi, Danang and Ho Chi Minh City to provide convenient access to our clients. Please contact us via email ant@antlawyers.vn or call our office at +84 28 730 86 529 for legal service in Vietnam

Thứ Ba, 20 tháng 9, 2022

Đặt tên trên giấy khai sinh cho trẻ em theo quy định pháp luật Việt Nam

Họ, tên là yếu tố cơ bản nhất để nhận dạng và phân biệt cá nhân. Tuy nhiên, cách đặt họ, tên phải tuân thủ theo quy định của pháp luật thì mới được ghi vào giấy khai sinh và có giá trị về mặt pháp lý. Quy định về vấn đề này được ghi nhận trong Bộ luật dân sự, Luật Hộ tịch, Nghị định số 123/2015/NĐ-CP và Thông tư số 04/2020/TT-BTP.

Bộ luật dân sự đã khẳng định về quyền có họ, tên tại khoản 1 Điều 26 như sau: Cá nhân có quyền có họ, tên (bao gồm cả chữ đệm, nếu có). Họ, tên của một người được xác định theo họ, tên khai sinh của người đó”. Một trong những nội dung đăng ký khai sinh được nêu tại khoản 1 Điều 14 của Luật Hộ tịch năm 2014 là “Thông tin của người được đăng ký khai sinh: Họ, chữ đệm và tên; giới tính; …”. Trong đó, họ của cá nhân thông thường sẽ theo tập quán trừ trường hợp cha mẹ có thỏa thuận khác hoặc đứa trẻ không xác định được cha đẻ thì họ của con sẽ theo họ mẹ. Quy định này được nêu tại khoản 2 Điều 26 Bộ luật dân sự và khoản 1 Điều 4 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP.  Bộ luật dân sự cũng đưa ra nguyên tắc đặt tên: “Tên của công dân Việt Nam phải bằng tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc khác của Việt Nam; không đặt tên bằng số, bằng một ký tự mà không phải là chữ”. Ngoài ra, Điều 6 Thông tư 04/2020/TT-BTP điều chỉnh về nội dung khai sinh yêu cầu: “Việc xác định họ, dân tộc, đặt tên cho trẻ em phải phù hợp với pháp luật và yêu cầu giữ gìn bản sắc dân tộc, tập quán, truyền thống văn hóa tốt đẹp của Việt Nam; không đặt tên quá dài, khó sử dụng”. Tuy nhiên, quy định này còn thiếu tính minh thị, rõ ràng vì chưa có quy chuẩn để xác định tên như thế nào thì được coi là giữ gìn được bản sắc dân tộc, tập quán và số lượng từ bao nhiêu thì tên bị coi là quá dài.

Đối với trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha mẹ đẻ thì căn cứ vào hoàn cảnh thực tế để xác định họ cho trẻ theo quy định tại khoản 2 Điều 26. Nếu trẻ đã được nhận làm con nuôi thì họ của trẻ được xác định theo họ của cha nuôi hoặc họ của mẹ nuôi theo thỏa thuận của cha mẹ nuôi và việc đăng ký khai sinh sẽ do cha hoặc mẹ nuôi thực hiện. Nếu trẻ chưa được nhận làm con nuôi thì họ của trẻ em được xác định theo đề nghị của người đứng đầu cơ sở nuôi dưỡng trẻ em đó hoặc theo đề nghị của người có yêu cầu đăng ký khai sinh cho trẻ em.

Hiện nay, theo xu hướng hội nhập, nhiều cha mẹ muốn đặt tên con là tiếng nước ngoài. Căn cứ vào các quy định và nguyên tắc nói trên, pháp luật nước ta chưa cho phép thực hiện điều đó. Còn trong trường hợp đứa trẻ có cha hoặc mẹ là người nước ngoài, khoản 2 Điều 16 Luật Quốc tịch 2008 quy định: “Trẻ em khi sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là công dân nước ngoài thì có quốc tịch Việt Nam, nếu có sự thỏa thuận bằng văn bản của cha mẹ vào thời điểm đăng ký khai sinh cho con. Trường hợp trẻ em được sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà cha mẹ không thỏa thuận được việc lựa chọn quốc tịch cho con thì trẻ em đó có quốc tịch Việt Nam”. Như vậy, nếu đứa trẻ có quốc tịch Việt Nam thì dù có cha/mẹ là người nước ngoài thì vẫn không được đặt tên theo tiếng nước ngoài mà phải tuân thủ pháp luật Việt Nam. Ngược lại, nếu cha mẹ đều thống nhất cho đứa trẻ mang quốc tịch nước ngoài thì việc đặt tên cho đứa trẻ sẽ tuân theo quy định nước đó thay vì quy định nước ta.

Pháp luật nước ta đã xây dựng những quy định về việc đặt họ, tên và họ, tên phải đáp ứng các quy định này để được ghi vào Giấy khai sinh. Cha mẹ cần lưu ý điều này để quá trình đăng ký khai sinh cho trẻ được thuận lợi, giảm thiểu những sai sót xảy ra.  

For clients speaking English, ANT Lawyers is a law firm in Vietnam with English speaking lawyers, located in the business centers of Hanoi, Danang and Ho Chi Minh City to provide convenient access to our clients. Please contact us via email ant@antlawyers.vn or call our office at +84 28 730 86 529 for legal service in Vietnam

Nguồn : ANT Lawyers

Thứ Tư, 14 tháng 9, 2022

Những khó khăn trong việc xin giấy phép lao động sau covid

Xuất phát từ sự hội nhập quốc tế và nhu cầu của thị trường lao động Việt Nam, số lượng người nước ngoài làm việc ở nước ta ngày càng tăng. Để đảm bảo sự bình ổn của thị trường lao động và sự quản lý, kiểm soát của cơ quan có thẩm quyền, pháp luật yêu cầu người nước ngoài cần phải có giấy phép lao động để được làm việc ở nước ta, ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt. Sau đại dịch Covid, quy trình xin giấy phép lao động cũng dần bình thường hóa trở lại. Tuy nhiên, người lao động nước ngoài vẫn gặp một số khó khăn trong quá trình xin giấy phép lao động.

Thứ nhất, Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động được quy định tại Điều 9 Nghị định 152/2020/NĐ-CP liệt kê nhiều văn bản, giấy tờ mà người lao động phải chuẩn bị. Trong đó, có điểm c yêu cầu: “Giấy chứng nhận sức khỏe hoặc giấy khám sức khỏe do cơ quan, tổ chức y tế có thẩm quyền của nước ngoài hoặc của Việt Nam cấp có giá trị trong thời hạn 12 tháng”. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid, sức khỏe của người lao động nói chung và người nước ngoài nói riêng trong nhiều trường hợp không đủ điều kiện để nhận Giấy chứng nhận sức khỏe. Hồ sơ của họ từ đó không được tiếp nhận do chưa đáp ứng được yêu cầu pháp luật đặt ra. Ngoài ra, số lượng lớn tài liệu phải chuẩn bị trong hồ sơ gây khó khăn cho cả người sử dụng lao động và người lao động. Để thu thập tất cả những tài liệu này không phải điều dễ dàng, đòi hỏi nhiều thời gian, chi phí và trải qua nhiều thủ tục, đặc biệt là khó khăn về ngôn ngữ khi có những tài liệu bằng tiếng nước ngoài. Khoản 10 Điều 9 Nghị định trên quy định về hợp pháp hóa lãnh sự giấy tờ của nước ngoài, chứng thực các bản sao. Dù biết quy định này giúp bảo đảm tính xác thực của các tài liệu song thủ tục hợp pháp hóa lãnh sự chưa thật sự phổ biến nên không phải ai cũng biết thực hiện, dẫn tới việc mất nhiều thời gian.

Thứ hai, thời gian để được cấp giấy phép lao động khá dài với nhiều trình tự, thủ tục khác nhau. như xin chấp nhận nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài, chuẩn bị hồ sơ, nộp hồ sơ. Đặc biệt, như đã phân tích ở trên, số lượng giấy tờ trong hồ sơ tương đối nhiều nên quá trình chuẩn bị cũng mất rất nhiều thời gian. Trong những trường hợp khẩn cấp, cần sử dụng người lao động nước ngoài ngay lập tức hoặc ngay trong một khoảng thời gian ngắn thì việc xin giấy phép sẽ cản trở nhu cầu này và gây khó khăn cho người sử dụng lao động. Do đó, cơ quan lập pháp cần xem xét rút ngắn trình tự thủ tục cấp giấy phép lao động cũng như đơn giản hóa hồ sơ cần nộp, tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng lao động và người lao động; từ đó, khuyến khích người lao động nước ngoài chất lượng cao với nhiều kỹ năng, kinh nghiệm tham gia vào thị trường lao động Việt Nam.

Như vậy, hai khó khăn lớn nhất phải đối mặt khi xin cấp giấy phép lao động ở Việt Nam là: (1) yêu cầu quá nhiều giấy tờ, tài liệu trong hồ sơ và (2) tốn thời gian với nhiều trình tự, thủ tục. Từ những khó khăn nêu trên, nhiều doanh nghiệp lo ngại trong việc sử dụng lao động nước ngoài hoặc sử dụng “chui” mà không xin giấy phép. Điều này khiến cho việc quản lý và kiểm soát thị trường lao động của cơ quan có thẩm quyền trở nên khó khăn hơn. Vì vậy, pháp luật nước ta cần cân nhắc chỉnh sửa những quy định điều chỉnh việc cấp giấy phép lao động. 

For clients speaking English, ANT Lawyers is a law firm in Vietnam with English speaking lawyers, located in the business centers of Hanoi, Danang and Ho Chi Minh City to provide convenient access to our clients. Please contact us via email ant@antlawyers.vn or call our office at +84 28 730 86 529 for legal service in Vietnam

Thứ Ba, 6 tháng 9, 2022

Một Số Điểm Mới Trong Dự Thảo Luật Đất Đai Sửa Đổi

Luật Đất đai được ban hành năm 2013, sau gần 10 năm áp dụng và thực thi trong thực tiễn đã mang lại những thành tựu nhất định trong việc quản lý, khai thác và sử dụng đất đai. Tuy nhiên, trước nhu cầu sử dụng đất tăng đáng kể đặc biệt ở các khu vực trung tâm thành phố, nhiều vấn đề phát sinh nằm ngoài tầm kiểm soát và điều chỉnh của luật. Do đó, yêu cầu sửa đổi, bổ sung đạo luật này được đặt ra sao cho phù hợp với thực tiễn và đem lại kết quả cao trong quá trình áp dụng. Mới đây, Cổng thông tin điện tử của Chính phủ đã công bố Dự thảo Luật đất đai và lấy ý kiến công chúng bao gồm người dân, chuyên gia, các doanh nghiệp, các luật sư về bất động sản   để hoàn thiện và chính thức ban hành Luật đất đai sửa đổi.

Về mặt tổng quan, Dự thảo Luật đất đai gồm 237 điều, trong đó giữ nguyên 48 điều; sửa đổi, bổ sung 153 điều; bổ sung mới 36 điều và bãi bỏ 8 điều so với Luật Đất đai 2013. Trong đó, có một số sự thay đổi đáng chú ý. Trước hết, đối với mục đích sử dụng đất, Dự thảo Luật đất đai bổ sung điều khoản về “đất sử dụng đa mục đích” (Điều 184), cho phép tổ chức, cá nhân có thể sử dụng đất cho nhiều mục đích khác nhau thay vì chỉ một mục đích duy nhất, miễn là đáp ứng được các nguyên tắc được đặt ra. Trong khi đó, Luật đất đai 2013 chưa có bất kỳ điều khoản nào quy định trực tiếp rằng các chủ thể có quyền sử dụng đất đa mục đích dù tình trạng này diễn ra phổ biến hiện nay, chẳng hạn như người sử dụng đất có thể kết hợp mục đích ở và kinh doanh tại cùng một thửa đất. Vì vậy, bổ sung quy định này vào Dự thảo là điều vô cùng hợp lý nhằm hợp pháp hóa việc sử dụng đất vào nhiều mục đích khác nhau, tăng hiệu quả sử dụng đất. Đồng thời, điều khoản này cũng đã nêu lên một số nguyên tắc cụ thể, bảo đảm việc đất sử dụng đa mục đích không bị lạm dụng dẫn đến vấn đề sử dụng đất bừa bãi, tùy ý.

Tiếp đó, Dự thảo Luật đất đai đã bỏ khung giá đất, chỉnh sửa quy định xác định giá đất. Đối với khung giá đất, Điều 113 Luật đất đai 2013 quy định là: “Chính phủ ban hành khung giá đất định kỳ 05 năm một lần đối với từng loại đất, theo từng vùng…”. Điều khoản này hoàn toàn bị xóa bỏ trong Dự thảo. Bỏ khung giá đất đồng nghĩa với việc Nhà nước sẽ không áp dụng mức giá tối thiểu và tối đa đối với từng loại đất nữa. Thay vào đó, khi ban hành bảng giá đất của từng địa phương thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ căn cứ vào các nguyên tắc, các phương pháp định giá đất, các quy chuẩn và giá đất, sự biến động về giá đất thực tế trên thị trường để xây dựng ra bảng giá đất. Sau khi xây dựng xong bảng giá đất sẽ được trình Hội đồng nhân dân tỉnh trước khi thông qua. Căn cứ vào tình hình thực tế, xóa bỏ khung giá đất là điều đúng đắn bởi giá đất được ban hành bởi Chính phủ có sự chênh lệch rất lớn so với giá đất trên thị trường, dẫn đến tồn tại cơ chế hai giá đất. Điều này gây khó khăn cho công tác quản lý đất đai của các cơ quan có thẩm quyền, hoạt động đầu tư đất đai của các nhà đầu tư và quyền lợi của người sử dụng đất. Bên cạnh đó, sự chênh lệch về giá đất cũng tạo điều kiện cho tình trạng tham nhũng, cửa quyền trong đấu giá. Do đó, quyết định xóa bỏ khung giá đất trong Dự thảo Luật đất đai là một bước tiến vượt trội, tác động lớn đến lĩnh vực đất đai nói riêng và đời sống kinh tế – xã hội nói chung. Ngoài khung giá đất, các quy định liên quan đến bảng giá đất cũng được chỉnh sửa, bổ sung. Cụ thể, Điều 130 Dự thảo Luật đất đai bổ sung thêm căn cứ để xác định bảng giá đất là “giá đất phổ biến trên thị trường và biến động giá đất” và thay đổi định kỳ xây dựng bảng giá đất từ 5 năm một lần thành mỗi năm một lần. Quy định trong Dự thảo giúp cho bảng giá đất được đưa ra bởi Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh sẽ phù hợp và ít chênh lệch với giá đất thực tế.

Không chỉ vậy, trách nhiệm theo dõi, đánh giá việc quản lý và sử dụng đất đai được phân cấp cho các địa phương theo quy định của Dự thảo luật đất đai. Luật đất đai 2013 chưa từng quy định về việc phân cấp quản lý, sử dụng đất đai. Dự thảo đã bổ sung điều khoản điều chỉnh vấn đề này. Điều 223.4 quy định trách nhiệm thực hiện theo dõi và đánh giá từ cấp cao đến cấp thấp, từ cấp trung ương đến địa phương, bao gồm trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Uỷ ban nhân dân cấp huyện và Uỷ ban nhân dân cấp xã. Các cơ quan nói trên đều phải thực hiện trách nhiệm theo dõi và đánh giá quá trình quản lý đất đai. Theo đó, cơ quan cấp trên sẽ quản lý cơ quan cấp dưới trực thuộc của mình nhằm đảm bảo tính minh bạch, đúng đắn trong việc quản lý và sử dụng đất đai. Cơ chế phân cấp quản lý giúp cho việc quản lý trở nên dễ dàng, nhanh chóng và đạt hiệu quả hơn việc một cơ quan quản lý tập trung tất cả các cơ quan còn lại.

Ngoài ra, Điều 124.1 Dự thảo Luật đất đai đã bổ sung các khoản thu tài chính từ đất đai so với Điều 107 Luật đất đai 2013. Một số khoản thu mới là thu tiền sử dụng đất khi sử dụng đất kết hợp với các mục đích khác; tiền sử dụng đất, tiền thuê đất tăng thêm đối với các dự án chậm tiến độ, không đưa đất vào sử dụng và tiền thu từ việc xử phạt vi phạm hành chính về đất đai. Đồng thời, Dự thảo bổ sung các khoản thu từ dịch vụ công đất đai tại Điều 125. Bổ sung những quy định này là cần thiết để tránh thất thoát ngân sách của Nhà nước đối với các nguồn lợi đến từ đất đai và thể hiện nghĩa vụ của chủ thể sử dụng đất.

Ngoài việc chỉnh sửa, bổ sung những quy định nổi bật nêu trên, Dự thảo Luật đất đai còn có nhiều điểm đổi mới khác. Dự thảo vẫn đang trong quá trình xem xét và lấy ý kiến đóng góp từ công chúng nên sẽ còn nhiều thay đổi. Tuy nhiên, những ưu điểm và tiến bộ của Dự thảo so với Luật đất đai hiện hành là điều hiển nhiên dễ dàng nhận thấy, thể hiện sự phát triển phù hợp với tình hình thực tế. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, nếu Dự thảo sửa đội được thông qua và chính thức có hiệu lực sẽ đem lại kết quả khả quan. 

For clients speaking English, ANT Lawyers is a law firm in Vietnam with English speaking lawyers, located in the business centers of Hanoi, Danang and Ho Chi Minh City to provide convenient access to our clients. Please contact us via email ant@antlawyers.vn or call our office at +84 28 730 86 529 for legal service in Vietnam

Nhận xét về một số điểm mới của luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật sở hữu trí tuệ

Luật Sở hữu trí tuệ (SHTT) năm 2005 đã được sửa đổi, bổ sung hai lần vào năm 2009 và 2019 để phù hợp với thực tiễn áp dụng, kịp thời điều chỉnh các vấn đề mới phát sinh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, trước sự phát triển nhanh chóng và hội nhập quốc tế của lĩnh vực này, yêu cầu hoàn thiện luật tiếp tục được đặt ra để pháp luật trong nước thống nhất với pháp luật quốc tế. Vì vậy, Quốc hội đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT (gọi chung là Luật sửa đổi, bổ sung) vào ngày 16/06/2022 và sẽ chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2023. Luật mới sửa đổi, bổ sung hơn 100 điều khoản của Luật SHTT, trong đó tập trung vào 7 nhóm chính sách lớn. Trong phạm vi giới hạn của bài viết này, một số điểm mới nổi bật của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ sẽ được phân tích

Thứ nhất, Luật SHTT cập nhập, chỉnh sửa và hoàn thiện việc giải thích các từ ngữ sao cho chặt chẽ và thống nhất. Bất kỳ đạo luật nào cũng sẽ có điều khoản giải thích những từ ngữ chuyên ngành của lĩnh vực được điều chỉnh. Tuy nhiên, trong quá trình liên kết giữa khái niệm và quy định, sự thiếu thống nhất hoặc hiểu nhầm vẫn xảy ra nên việc sửa đổi, bổ sung là cần thiết. Cụ thể, một số khái niệm tại Điều 4 Luật SHTT như: tác phẩm phái sinh; tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình; sao chép; phát sóng; kiểu dáng công nghiệp; nhãn hiệu liên kết; nhãn hiệu nổi tiếng; chỉ dẫn địa lý được giải thích, làm rõ. Khái niệm có thể được coi là nền tảng để xác định và áp dụng các quy định pháp luật liên quan đến những phát đề nảy sinh xung quanh khái niệm đó, chẳng hạn như quyền tác giả của tác phẩm phái sinh hay quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý. Khái niệm theo Luật sửa đổi, bổ sung không phải đổi mới hoàn toàn mà đơn giản chỉ là kế thừa và hoàn thiện từ luật cũ, do đó, không khó để thích nghi và áp dụng.

Thứ hai, Luật sửa đổi bổ sung quy định cụ thể hơn về quyền tác giả và quyền liên quan; kéo dài thời hạn bảo hộ; đồng thời, có sự thay đổi trong việc chuyển nhượng, chuyển giao các quyền này. Bên cạnh những tác phẩm được bảo hộ suốt cuộc đời tác giả, tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, sân khấu, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh công bố lần đầu tiên được kéo dài thời hạn bảo hộ từ 50 năm lên 75 năm. Có thể nhận xét rằng, việc bảo hộ quyền tác giả ngày càng được coi trọng và trở nên chặt chẽ hơn.  Sự thay đổi lớn nhất đó là Luật sửa đổi, bổ sung cho phép tác giả chuyển giao thêm một quyền nhân thân nữa. Căn cứ vào Điều 41 Luật SHTT 2005 sửa đổi, bổ sung 2009 và 2019, tác giả chỉ được chuyển giao một số hoặc toàn bộ các quyền tài sản và một quyền nhân thân duy nhất là quyền công bố tác phẩm. Cho đến Luật sửa đổi, bổ sung năm 2022, Điều 19 cho phép “tác giả có quyền chuyển quyền sử dụng quyền đặt tên tác phẩm cho tổ chức, cá nhân nhận chuyển giao quyền tài sản”. Đồng thời, quy định tại Điều 47 trước đây: “Tác giả không được chuyển quyền sử dụng các quyền nhân thân quy định tại Điều 19, trừ quyền công bố tác phẩm…” được sửa đổi thành “Tác giả không được chuyển quyền sử dụng quyền nhân thân quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều 19 của Luật này…”. Sự thay đổi này đồng nghĩa với việc tác giả được quyền chuyển giao hai quyền nhân thân là quyền công bố tác phẩm và quyền đặt tên cho tác phẩm. Từ đó, chủ sở hữu được chuyển giao quyền hoàn toàn có thể đặt tên hoặc thay đổi tên và điều đó hoàn toàn không ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của tác giả.

Thứ ba, Luật sửa đổi, bổ sung năm 2022 làm rõ các hành vi xâm phạm đến quyền tác giả, quyền liên quan. Điều 28 quy định về hành vi xâm phạm quyền tác giả ban đầu có 16 khoản, sau đó được rút gọn cô đọng, súc tích thành 8 khoản nhưng vẫn đầy đủ và bao quát được nội dung. Chẳng hạn, khoản 1 “chiếm đoạt quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học”, khoản 2 “mạo danh tác giả”, khoản 3 “Công bố, phân phối tác phẩm mà không được phép của tác giả”, … đều được gộp lại trong khoản 1 và 2 của luật mới là “xâm phạm quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả”.  Bên cạnh đó, các điều khoản tại Điều 35 về hành vi xâm phạm quyền liên quan đều được bổ sung và giải thích. Ngoài ra, cả Điều 28 và Điều 35 còn thêm khoản 11 về hành vi “không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ quy định để được miễn trừ trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian”. Công nghệ kỹ thuật và mạng Internet phát triển mạnh mẽ kéo theo sự hình thành của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian. Quy định “doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian” lần đầu xuất hiện trong Luật SHTT, thể hiện sự phát triển và hoàn thiện của luật nhằm điều chỉnh kịp thời những vấn đề mới phát sinh. Ngoài ra, đối với các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm đến quyền tác giả, theo Luật sửa đổi, bổ sung thì khi sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền bản quyền nhưng phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm. Sự thay đổi này nhằm đảm bảo quyền tác giả đối với tác phẩm đó, tránh tình trạng có sự hiểu nhầm người sử dụng chính là tác giả của tác phẩm.

Thứ tư, thủ tục đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan, quyền sở hữu công nghiệp trở nên đơn giản, tinh gọn hơn. Nếu như Luật chưa sửa đổi chỉ quy định nộp đơn trực tiếp hoặc thông qua đại diện hợp pháp tại Việt Nam thì sau khi luật được sửa đổi, đơn đăng ký xác lập quyền có thể được nộp dưới hình thức văn bản ở dạng giấy (nộp trực tiếp) hoặc dạng điện tử theo hệ thống nộp đơn trực tuyến. Quy định mới thể hiện sự cập nhập phù hợp với sự phát triển của trình độ khoa học công nghệ thông tin của thời đại số. Điều này tạo điều kiện thuận lợi để các chủ thể có thể dễ dàng nộp đơn, đặc biệt là các chủ thể có khoảng cách về địa lý mà không cần ủy quyền cho tổ chức, cá nhân khác nộp đơn. Đồng thời, nó cũng giảm bớt nguồn nhân lực mà vốn cần để tiếp nhận đơn trực tiếp

Thứ năm, việc sử dụng quốc kỳ, quốc huy, quốc ca lần đầu được quy định trong Luật SHTT. Cụ thể, “Tổ chức, cá nhân thực hiện quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không được ngăn chặn, cản trở việc phổ biến, sử dụng Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca” (được bổ sung vào Điều 7.2). Như vậy, việc phổ biến, sử dụng Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca được cho phép mà không bị bất kỳ tổ chức, cá nhân nào ngăn chặn, cản trở nếu mục đích của việc sử dụng đó không vi phạm pháp luật và không trái đạo đức xã hội.

Như vậy, Luật sửa đổi, bổ sung Luật SHTT 2005 đã cập nhập, hoàn thiện hơn 100 điều luật để phù hợp với định hướng phát triển kinh tế – xã hội, khoa học – công nghệ của đất nước và thống nhất với nội dung của những điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Để Luật sửa đổi, bổ sung đạt được kết quả tốt khi thi hành, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần sớm ban hành  các quy định hướng dẫn chi tiết, chú trọng công tác tổ chức thi hành Luật, bảo đảm các quy định của Luật đi vào cuộc sống. Sự thành công của Luật sửa đổi sẽ góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững của lĩnh vực sở hữu trí tuệ nước ta. 

For clients speaking English, ANT Lawyers is a law firm in Vietnam with English speaking lawyers, located in the business centers of Hanoi, Danang and Ho Chi Minh City to provide convenient access to our clients. Please contact us via email ant@antlawyers.vn or call our office at +84 28 730 86 529 for legal service in Vietnam